KÝ
HIỆU ÂM NHẠC LIÊN QUAN ĐẾN CAO ĐỘ
1. Tên các dấu nhạc
có cao độ khác nhau mà người ta thường dùng là : DO, RE, MI, FA, SOL, LA, SI
gốc tiếng La-tinh, đọc theo tiếng Việt là ĐÔ, RÊ, MÍ, FA, XON, LA, XI. Đó là 7
bậc cơ bản của hệ thống thất âm, tính từ thấp lên cao. Muốn lên cao hoặc xuống
thấp hơn, người ta lặp lại tên dấu các bậc trên với cao độ cách nhau từng quãng
8 một (còn gọi là bát độ).
2. Người ta cũng còn dùng các chữ
cái La-tinh để gọi tên các bậc cơ bản trên : đô : C, rê : D, mi : E, fa
: F, xon : G, la : A, xi : B (hiện nay B chỉ Xi giáng, còn H chỉ Xi thường).
3. Ở một số nước như Trung Hoa, Nhật
Bản … người ta còn dùng số thay cho tên gọi bằng chữ. Thí dụ
: 1 : đô, 2 : rê, 3 : mi … (1 chỉ dấu bậc I, 2 chỉ dấu bậc II, 3 chỉ dấu bậc
III …, 7 chỉ dấu bậc VII, muốn lên cao một bát độ, ta thêm dấu chấm trên con
số, muốn xuống thấp một bát độ, ta thêm dấu chấm dưới con số 1, 1 …). Số có 1
gạch là dấu móc, dấu có một gạch ngang là dấu trắng. Dấu không có gì là dấu
đen…
Thang thất âm Đô luôn được trình bày
dưới dạng 7 âm cơ bản đi liền nhau cộng thêm với âm đầu của thang âm được lặp
lại ở bát độ : Đô Rê Mi Fa Xon La Xi (Đô).
4. Khoảng cách về cao
độ tương đối giữa các bậc không đồng đều nhau.
· Khoảng
cách nhỏ nhất trong thất âm gọi là nửa cung, giữa Mi với Fa
và Xi với Đô.
· Khoảng
cách lớn nhất giữa hai bậc cơ bản đi liền nhau gọi là nguyên cung
: giữa Đô với Rê, Rê với Mi, Fa với Xon, Xon với La, và La với Xi.
Ta có sơ đồ :
Đô–Rê–Mi-Fa–Xon–La–Xi-Đô (mỗi gạch
ngang chỉ nữa cung, nguyên cung gồm 2 nửa cung).
Như
vậy khoảng cách âm thanh giữa Đô thấp và Đô cao kế tiếp gồm 12 nửa cung, hoặc 6
nguyên cung. Nói cách khác, quãng tám (Đồ – Đố) gồm 12 âm cách nhau đều
đặn từng nửa cung một (ở đây chỉ mới nói đến hệ âm điều hoà
do nhạc sĩ Jean-Sebastien Bach (1685-1750)và Jean Philippe Rameau (1683-1764)
cổ võ và được chấp nhận rộng rãi cho đến này).
5. Dấu hoá : là
những ký hiệu cho biết các bậc cơ bản được tăng lên hay giảm xuống từng nửa
cung điều hoà.
5.1. - Dấu thăng
: (#) làm tăng lên nửa cung.
- Thăng kép : (x)
làm tăng lên 2 nửa cung.
5.2. - Dấu giáng
: (b) làm giảm xuống nửa cung.
- Giáng kép :
(bb) làm giảm 2 nửa cung.
5.3. - Dấu
bình : ( ) cho trở
về cao độ tự nhiên,
không còn bị ảnh hưởng của các dấu
hoá cấu thành cũng như dấu hoá bất thường.
Ở một số nước như Đức, Nga … khi
dùng chữ cái La-tinh A, B, C … người ta thêm vần is thay dấu
thăng : Cis : Đô# ; Eis : Mi# ; Ais : La# ; Cisis : Đôx … và thêm vần es
thay dấu giáng : Ces : Đôb ; Ceses : Đôbb ; Des : Rêb ; Ees —> Es : Mib ;
Aes —> As : Lab.
6. Nhờ các dấu hoá đặt trước các dấu
nhạc trên khuông nhạc, các bậc cơ bản được nâng cao hoặc hạ thấp tạo thành
các “bậc chuyển hoá” : Đồ - Đô# (Rêb)
– Rê - Rê# (Mib) – Mi – Fa - Fa# (Xonb) –
Xon - Xon# (Lab) – La - La# (Xib) – Xi –
Đô (các dấu hoá này được gọi là các dấu hoá bất thường. Chỉ
ảnh hưởng đến các dấu nhạc cùng tên trong cùng một ô nhịp, khác với các dấu
hoá cấu thành ghi ở đầu khuông nhạc, còn gọi là hoá biểu,
ảnh hưởng đến mọi dấu nhạc cùng tên trong cùng một đoạn nhạc).
- Nửa
cung dị chuyển : (diatonic đọc là đi-a-tô-ních) là nửa cung tạo nên
bởi 2 bậc khác tên kề nhau.
- Nửa cung đồng chuyển
: (chromatic đọc là crô-ma-tích) là nửa cung tạo nên bởi 2 bậc cùng
tên.
- Nguyên cung dị chuyển
: được tạo nên bởi 2 bậc khác tên kề nhau.
- Nguyên cung đồng chuyển
: được tạo nên bởi 2 bậc cùng tên như Fa – Fa x, Xon – Xon bb hoặc
2 bậc khác tên không kề nhau : Đô# – Mib, Xon# – Xib. Trên thực tế đây
là quãng ba giảm.
TD 5
a) 2 bậc cùng tên b) 2 bậc
khác tên không kề nhau (= quãng 3 giảm)
7. Muốn ghi cao độ tuyệt
đối của các âm thanh, người ta dùng đến khuông nhạc và khoá nhạc.
7.1. Khuông nhạc
: Hiện nay người ta dùng 5 đường kẻ song song, tạo thành 4 khe song song, tính
thứ tự từ dưới lên. Trên khuông nhạc đó, ta có 11 vị trí khác nhau, ghi được 11
bậc cơ bản. Muốn ghi thêm, người ta dùng các dòng kẻ phụ :
7.2. Khoá nhạc : dùng
để xác định tên các dấu nhạc ghi trên khuông nhạc. Khoá nhạc được ghi ở đầu mỗi
khuông nhạc.
Hiện nay thường dùng 3 loại khoá
chính sau :
a) Khoá Xon dòng 2
:
-
Dành cho bè nữ và các đàn âm khu cao như violon, Flute, Oboe …
-
Dành cho các bè nam cao và trầm : gồm khoá Xon Ricordi và khóa Xon hạ quãng 8
b) Khoá Fa dòng 4
: dành cho các giọng nam và các dàn thuộc âm khu trầm như Violoncello (cello),
Contrabasso, Fagotto, Trombone …
c) Khoá Đô dòng 3
: dùng cho đàn viola.
8. Âm La mẫu có
tần số 440 là âm chuẩn được đa số chấp nhận : nó được ghi trên khuông nhạc khoá
Xon 2, nằm ở khe thứ 2. Người ta gọi đó là âm La 3, vì nó nằm trong bát độ thứ
3 của 4 bát độ hợp ca của giọng người.
Với hai khoá Xon và Fa, chúng ta có
thể xác định chính xác độ cao tuyệt đối của các âm thanh thuộc âm vực giọng hát
hợp ca trải dài trong 4 bát độ. Có những nhạc khí có thể phát ra âm thanh trầm
hơn quá 1 bát độ (La – Xi – Đồ – Rê … Đô1) hoặc cao hơn 2 bát độ (Đô5 – Rê – Mi
… Đô6). Để khỏi dùng đến quá nhiều dòng kẻ phụ, ta dùng dấu chuyển độ :
- Dấu chuyển độ lên
: Phải tấu âm thanh lên cao hơn 1 bát độ : Ghi số 8 ở trên dòng nhạc, ngay chỗ
bắt đầu phải chuyển độ, và thêm những vạch ngang rời song song với khuông nhạc
cho đến khi diễn tấu bình thường như cao độ ghi trên khuông nhạc (có khi người
ta viết chữ Octava đúng hơn Ottava Alta (8va Alta) ….. loco, loco báo hiệu trở
lại bình thương (TD 6a).
- Dấu chuyển độ xuống
: Phải tấu âm thanh thấp hơn 1 bát độ : Ghi số 8 dưới khuông nhạc với các vạch
ngang rời cho đến khi không phải chuyển độ nữa (có khi thay bằng chữ Ottava
bassa (8va bassa) ….. loco (TD 6b)).
TD 6
: Dấu chuyển độ
a) chuyển độ lên Ottava ….. loco
b) chuyển độ
xuống Ottava bassa ….. loco
Kết thúc chương 1.
No comments:
Post a Comment